Tuần hoàn ngoài cơ thể là gì? Các công bố khoa học về Tuần hoàn ngoài cơ thể

Tuần hoàn ngoài cơ thể là kỹ thuật y khoa dùng để hỗ trợ tuần hoàn máu ngoài phạm vi cơ thể bệnh nhân, thường áp dụng trong phẫu thuật tim mạch phức tạp. Kỹ thuật này phát triển từ thế kỷ 19 và được ứng dụng rộng rãi vào giữa thế kỷ 20 nhờ máy tim phổi nhân tạo. Quá trình hoạt động của hệ thống này bao gồm việc dẫn máu ra ngoài, thông qua máy bơm và bộ lọc ôxy, trước khi trở lại cơ thể bệnh nhân. Dù mang lại lợi ích lớn trong việc duy trì chức năng sống, nó cũng tiềm ẩn nguy cơ nhiễm trùng và tổn thương hồng cầu. Tuy nhiên, với tiến bộ y học, tuần hoàn ngoài cơ thể ngày càng an toàn và hiệu quả hơn.

Khái niệm Tuần Hoàn Ngoài Cơ Thể

Tuần hoàn ngoài cơ thể, còn được biết đến với tên tiếng Anh là "extracorporeal circulation", là một kỹ thuật y khoa quan trọng được sử dụng để hỗ trợ tuần hoàn máu của cơ thể ngoài phạm vi của cơ thể bệnh nhân. Phương pháp này thường được áp dụng trong các ca phẫu thuật tim mạch phức tạp hoặc khi cần hỗ trợ chức năng tim phổi tạm thời.

Lịch Sử Phát Triển

Kỹ thuật tuần hoàn ngoài cơ thể đã có những bước phát triển vượt bậc kể từ những thí nghiệm ban đầu của các nhà khoa học vào thế kỷ 19. Tuy nhiên, phải đến giữa thế kỷ 20, đặc biệt là với sự ra đời của máy tim phổi nhân tạo đầu tiên vào năm 1953 bởi tiến sĩ John Gibbon, kỹ thuật này mới thực sự được ứng dụng rộng rãi trong y học hiện đại.

Cơ Chế Hoạt Động

Trong quá trình tuần hoàn ngoài cơ thể, máu của bệnh nhân được dẫn ra ngoài cơ thể và lưu thông qua một hệ thống máy móc nhân tạo. Hệ thống này bao gồm máy bơm, bộ lọc ôxy, và một bộ lọc máu nhằm thực hiện chức năng trao đổi khí và duy trì lưu lượng máu ổn định. Sau khi được lọc và bão hòa ôxy, máu sẽ được đưa trở lại cơ thể bệnh nhân.

Ứng Dụng Trong Y Học

Tuần hoàn ngoài cơ thể thường được sử dụng trong các ca phẫu thuật liên quan đến tim, phổi, hoặc mạch máu lớn, nơi mà hệ thống tuần hoàn tự nhiên của bệnh nhân cần được tạm thời thay thế hoặc hỗ trợ. Ngoài ra, kỹ thuật này cũng đóng vai trò quan trọng trong quá trình lọc máu ở bệnh nhân suy thận cấp hoặc mãn tính.

Lợi Ích và Nguy Cơ

Ưu điểm lớn nhất của tuần hoàn ngoài cơ thể là khả năng duy trì chức năng sống quan trọng trong các ca phẫu thuật phức tạp, cho phép bác sĩ thao tác chính xác và an toàn. Tuy nhiên, như bất kỳ phương pháp y khoa nào, nó cũng đi kèm với một số nguy cơ như tăng nguy cơ nhiễm trùng, biến chứng máu đông hoặc tổn thương hồng cầu.

Kết Luận

Tuần hoàn ngoài cơ thể đóng một vai trò không thể thiếu trong y học hiện đại, đặc biệt trong các ca phẫu thuật tim mạch phức tạp. Dù có những thách thức nhất định nhưng với sự tiến bộ không ngừng của y học và công nghệ, phương pháp này ngày càng an toàn và hiệu quả hơn, góp phần cứu sống nhiều bệnh nhân trên toàn thế giới.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "tuần hoàn ngoài cơ thể":

Giám sát căng thẳng oxy hóa và chuyển hóa trong phẫu thuật tim thông qua các biomarker trong hơi thở: một nghiên cứu quan sát Dịch bởi AI
Journal of Cardiothoracic Surgery - - 2007
Tóm tắt Trang bìa

Các biomarker bay hơi trong hơi thở cung cấp một cách quan sát không xâm lấn các quá trình sinh lý và bệnh lý trong cơ thể. Nghiên cứu này nhằm đánh giá tác động của phẫu thuật tim với tuần hoàn ngoài cơ thể (ECC) đến hồ sơ biomarker trong hơi thở. Chú ý đặc biệt được dành cho căng thẳng oxy hóa hoặc chuyển hóa trong suốt quá trình phẫu thuật và tuần hoàn ngoài cơ thể, có thể gây tổn thương cơ quan và kết quả xấu.

Phương pháp

24 bệnh nhân trải qua phẫu thuật tim với tuần hoàn ngoài cơ thể đã được đưa vào nghiên cứu quan sát này. Mẫu hơi thở phế nang (10 mL) được thu thập sau khi gây mê, sau khi mổ mở ngực, 5 phút sau khi kết thúc ECC, và 30, 60, 90, 120 và 150 phút sau khi phẫu thuật. Mẫu khí phế nang được lấy từ mạch dưới sự kiểm soát trực quan của CO2 đã thở ra. Mẫu hít vào được lấy gần ống vào máy thở. Các chất bay hơi trong hơi thở được tập trung trước bằng phương pháp chiết xuất vi mô pha rắn, tách biệt bằng sắc ký khí, phát hiện và xác định bằng khối phổ kế.

#Biomarker hơi thở #căng thẳng oxy hóa #phẫu thuật tim #tuần hoàn ngoài cơ thể #nghiên cứu quan sát
Tổn thương thận cấp sau phẫu thuật tim sử dụng tuần hoàn ngoài cơ thể
Mục tiêu của nghiên cứu được thực hiện nhằm mô tả tổn thương thận cấp sau phẫu thuật tim có sử dụng tuần hoàn ngoài cơ thể. Thiết kế nghiên cứu mô tả được tiến hành trên tất cả các bệnh nhân được thực hiện phẫu thuật tim có sử dụng tuần hoàn ngoài cơ thể từ 01/9/2019 - 31/6/2021. Kết quả nghiên cứu cho thấy trong 105 bệnh nhân mổ thì tỉ lệ tổn thương thận cấp sau phẫu thuật là 24,8% (26/105). Nhóm tổn thương thận cấp có độ tuổi trung bình, ure máu và creatinin máu trước phẫu thuật cao hơn, thời gian chạy tuần hoàn ngoài cơ thể kéo dài hơn và số lượng nước tiểu ít hơn trong phẫu thuật. Số lượng các chế phẩm máu và tỉ lệ sử dụng các thuốc vận mạch nhiều hơn và thời gian nằm hồi sức kéo dài hơn ở nhóm tổn thương thận cấp sau phẫu thuật.
#Tổn thương thận cấp #phẫu thuật tim #tuần hoàn ngoài cơ thể.
Nghiên cứu so sánh kết quả tuần hoàn ngoài cơ thể giữa hai kiểu hệ thống kín và hở trên bệnh nhân phẫu thuật cầu nối động mạch vành
Mục đích: Nghiên cứu so sánh hai kiểu tuần hoàn ngoài cơ thể: - Kiểu tuần hoàn ngoài cơ thể thường qui với hệ thống hở và không có xử lý lượng máu hút về từ phẫu trường, - Kiểu tuần hoàn ngoài cơ thể với hệ thống kín nhằm làm giảm bề mặt tiếp xúc khí – máu và có xử lý lượng máu hút về từ phẫu trường. Phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu, ngẫu nhiên, so sánh kết quả áp dụng của 2 kiểu hệ thống tuần hoàn ngoài cơ thể ở 30 bệnh nhân phẫu thuật cầu nối động mạch vành chia làm 2 nhóm: - Nhóm tuần hoàn ngoài cơ thể kiểu hệ thống hở thường qui (n = 15); - Nhóm tuần hoàn ngoài cơ thể kiểu hệ thống kín cải tiến (n = 15). Kết quả: - Các bệnh nhân phẫu thuật cầu nối động mạch vành giữa 2 nhóm tuần hoàn kiểu hở và nhóm tuần hoàn kiểu kín là không có khác biệt lớn về độ tuổi (65±8 so với 66±9 tuổi);giới tính nam/nữ (14/1 so với 14/1); hematocrit trước mổ (38,8±2,7 so với 38,6±2,8 %). Các đặc điểm kỹ thuật về tuần hoàn ngoài cơ thể và phẫu thuật thực hiện trên 2 nhóm bệnh nhân là khá tương đồng về thời gian cặp động mạch chủ (52±15 so với 45±14 phút); thời gian tuần hoàn ngoài cơ thể (90±28 so với 74±23 phút); thời gian phẫu thuật (295±45 so với 268±35 phút); và số lượng cầu nối chủ-vành (2,5±0,6 so với 2,2±0,4 cầu nối). - Có sự khác biệt rõ về các kết quả như lượng máu truyền sau mổ (0,9±1,8 so với 0,4±0,8 đơn vị, p<0,01); cải thiện phản ứng viêm sau tuần hoàn hoàn cơ thể vớigiảm nồng độ các chất PS100 (0,7±1,2 so với 2,4±1,8 mcg/L, p<0,001); CRP (173,1±65,5 so với 189,1±60,3 mg/L, p<0,001); C3a (1356±634 so với 1785±1000 ŋg/L, p<0,001); và IL-6 (498±864 so với 243±167 mcg/L, p<0,001). - Kết quả lâm sàng thu được là khác biệt có ý nghĩa thống kê về thời gian thở máy (5,9±2,0 so với 5,2±1,2 giờ, p<0,01); thời gian ICU (66±35 so với 57±30, p<0,009); và thời gian nằm viện (10±3 so với 8±2, p<0,0009).* Kết luận: So với kỹ thuật tuần hoàn ngoài cơ thể thường qui kiểu hệ thống hở, thìtuần hoàn ngoài cơ thểvới hệ thống kín được sử dụng với mục đích làm giảm đáp ứng viêm và các hậu quả của nó, do đó cải thiện chất lượngđiều trị ở các bệnh nhân sau mổ bắc cầu nối chủ-vành với giảm thời gian thở máy, thời gian ICU, và rút ngắn thời gian nằm viện
So sánh hiệu quả giảm đau giữa gây tê mặt phẳng cơ dựng sống và truyền tĩnh mạch liên tục morphin do bệnh nhân tự kiểm soát sau phẫu thuật tim hở với tuần hoàn ngoài cơ thể
Đau sau phẫu thuật tim hở với tuần hoàn ngoài cơ thể (THNCT) luôn là nỗi ám ảnh của người bệnh và là mối quan tâm hàng đầu của bác sĩ Gây mê hồi sức. Các đối tượng bị cơn đau cấp tính hoặc mãn tính sẽ gặp phải tình trạng giảm khả năng tập trung, suy giảm trí nhớ, giảm linh hoạt trong khả năng giải quyết vấn đề và tốc độ xử lý thông tin. Hiện nay có hai phương pháp giảm đau được sử dụng nhiều nhất là giảm đau do bệnh nhân tự kiểm soát (PCA: patient-controlled analgesia) và gây tê mặt phẳng cơ dựng sống dưới hướng dẫn của siêu âm (ESP: erector spinae plane). Mục tiêu của nghiên cứu là so sánh hiệu quả giảm đau sau mổ giữa gây tê mặt phẳng cơ dựng sống (ESP) và giảm đau do bệnh nhân tự kiểm soát (PCA) trên bệnh nhân phẫu thuật tim hở với THNCT và đánh giá một số tác dụng không mong muốn của hai kỹ thuật giảm đau này. Đối tượng và phương pháp: 204 bệnh nhân người lớn được phẫu thuật tim hở với tuần hoàn ngoài cơ thể từ tháng 5/2020 đến tháng 9/2021 tại Khoa Gây mê hồi sức-Bệnh viện Tim Hà Nội được chia làm 2 nhóm: nhóm ESP (108 bệnh nhân) được giảm đau sau mổ bằng sử dụng gây tê mặt phẳng cơ dựng sống và nhóm PCA (96 bệnh nhân) được giảm đau sau mổ bằng truyền morphin liên tục do bệnh nhân tự kiểm soát. Chúng tôi so sánh mức độ đau của hai nhóm bằng việc sử dụng thang điểm VAS, lượng fentanyl sử dụng trong mổ, lượng morphin sử dụng, thời gian tỉnh và thời gian rút nội khí quản sau mổ cũng như một số tác dụng không mong muốn gặp phải trong 24 giờ sau mổ. Kết quả: Điểm VAS trung bình khi BN nằm yên hít thở sâu tại các thời điểm đánh giá ở hai nhóm đều dưới 3 (tương ứng với mức độ đau ít) (p>0,05). Lượng fentanyl trung bình trong mổ ở nhóm ESP (0,57±0,50 mg) thấp hơn so với nhóm PCA (1,00±0,00 mg) (p<0,05). Lượng morphin tiêu thụ trung bình trong 24 giờ sau mổ ở nhóm ESP (0,23±0,12 mg) thấp hơn có ý nghĩa so với nhóm PCA (17,92±3,32 mg) (p<0,05). Thời gian tỉnh sau mổ (3,80±1,02 giờ ở nhóm ESP; 5,21±1,10 giờ ở nhóm PCA), thời gian rút nội khí quản trung bình (ở nhóm ESP là 8,06±1,60 giờ; ở nhóm PCA là 8,83±1,43 giờ) đều thấp hơn có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Tỷ lệ buồn nôn trong nhóm ESP (20,98%) thấp hơn so với nhóm PCA (58,33%) (p<0,05). Kết luận: Cả hai phương pháp có hiệu quả giảm đau tốt với điểm VAS trung bình ≤ 3. Nhóm ESP có lượng tiêu thụ morphin trung bình sau mổ thấp hơn, mức độ hài lòng của BN cao hơn và tỷ lệ buồn nôn, nôn, thở chậm ít hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm PCA.
#gây tê mặt phẳng cơ dựng sống #giảm đau do bệnh nhân tự kiểm soát #phẫu thuật tim hở với tuần hoàn ngoài cơ thể
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ XỬ TRÍ Ở BỆNH NHÂN NGỪNG TUẦN HOÀN NGOẠI VIỆN CÓ KHÔI PHỤC TUẦN HOÀN TỰ NHIÊN TẠI HIỆN TRƯỜNG
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 541 Số 2 - Trang - 2024
Đặt vấn đề: Ngừng tuần hoàn ngoại viện là một vấn đề sức khỏe cộng đồng trên toàn thế giới, gây tử vong và tàn phế nặng nề. Khi cấp cứu bệnh nhân có khôi phục tuần hoàn tự nhiên tại hiện trường là yếu tố dự đoán manh mẽ tiên lượng bệnh nhận. Mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng và xử trí ở bệnh nhân ngừng tuần hoàn ngoại viện được cấp cứu có khôi phục tuần hoàn tự nhiên tại hiện trường. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả hồi cứu trên 50 bệnh nhân ngừng tuần hoàn ngoại viện được cấp cứu có khôi phục tuần hoàn tự nhiên trước viện tại hiện trường 2021. Kết quả: Bệnh nhân chủ yếu là nam giới chiếm 70% và trong độ tuổi lao động từ 19 – 59 chiếm 52%. Địa điểm thường gặp nhất là tại nhà chiếm 72% và có tới 80% bệnh nhân ngừng tuần hoàn có người chứng kiến. Khoảng 24% bệnh nhân được cấp cứu ngừng tuần hoàn cơ bản bởi người xung quanh. Thời gian đáp ứng của xe cứu thương là 10.64 ± 4.59 phút. Thời gian cấp cứu trung bình để khôi phục tuần hoàn tự nhiên là 26.26 ± 13.6 phút. Quy trình cấp cứu chủ yếu vẫn tập trung ép tim và bóp bóng Ambu. Trong 50 bệnh nhân nghiên cứu không có bệnh nhân nào được sử dụng máy sốc điện tự động. Kết luận: Mức độ nhận thức của người dân còn thấp chỉ có khoảng 24% bệnh nhân được cấp cứu bởi những người xung quanh. Quy trình cấp cứu bởi nhân viên cấp cứu ngoại viện chưa đầy đủ khi chưa triển khai được sốc điện ngoài hiện trường.
#Ngừng tuần hoàn ngoại viện #cấp cứu bởi những người xung quanh #cấp cứu ngừng tuần hoàn cơ bản #khôi phục tuần hoàn tự nhiên.
Kết quả sử dụng steroid ở nhóm bệnh nhi sau phẫu thuật tim với Tuần hoàn ngoài cơ thể
Mục tiêu: Đánh giá kết quả sử dụng steriod ở nhóm bệnh nhi sau phẫu thuật tim với tuần hoàn ngoài cơ thể có sử dụng steroid. Phương pháp nghiên cứu: Thử nghiệm lâm sàng, có đối chứng ngẫu nhiên, tiến cứu trên 106 bệnh nhi được phẫu thuật với tuần hoàn ngoài cơ thể (THNCT) tại Bệnh viện Tim Hà Nội. Kết quả: Tỉ lệ nhiễm trùng sau mổ của nhóm sử dụng corticoid là 85,5 %, nhóm không sử dụng corticoid là 96 %. Tỉ lệ sốt sau mổ của nhóm sử dụng corticoid là 32,7 %, nhóm không sử dụng corticoid là 35,3 %. Nồng độ Troponin T của nhóm sử dụng corticoid là 1729,3 ± 1874,8 ng/L, nhóm không sử dụng corticoid là 1855,0 ± 2658,0 ng/L. Thời gian thở máy và thời gian nằm hồi sức của nhóm sử dụng corticoid là 19,7 ± 23,6 giờ và 61,8 ± 53,0 giờ, nhóm không sử dụng corticoid là 19,8 ± 25,0 giờ và 52,5 ± 39,1 giờ. Kết luận: corticoid liều cao trong THNCT không gây nên các tác dụng bất lợi như trong một số nghiên cứu nhắc đến, nhưng không mang đến lợi ích nào đáng kể cho các bệnh nhi sau mổ tim.
#Tuần hoàn ngoài cơ thể #steroid
KẾT QUẢ SỚM PHẪU THUẬT BẮC CẦU ĐỘNG MẠCH VÀNH KHÔNG DÙNG TUẦN HOÀN NGOÀI CƠ THỂ TẠI BỆNH VIỆN CHỢ RẪY
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 500 Số 1 - 2021
Mục tiêu: Mô tả các đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng trước và trong phẫu thuật, các kết quả hậu phẫu, biến chứng chung và tử vong sớm trong viện. Phương pháp: Hồi cứu, mô tả loạt ca không đối chứng. Kết quả: 141 trường hợp trong nghiên cứu có tuổi trung bình là 59,8 ±8,3 tuổi, 83% <70 tuổi, Nam chiếm 81,6%, Bệnh nội khoa và yếu tố nguy cơ thường gặp là tăng huyết áp 79,4%, rối loạn lipid máu 39%, đái tháo đường 29,1%, có giảm chức năng thận trước mổ 49,6%. Chức năng thất trái: phân suất tống máu 53,2 ±12,4%, đường kính cuối tâm trương thất trái 53,2 ± 7,4mm. Tổn thương cả 3 nhánh động mạch vành là 93,6%, thân chung 44,1%. Thời gian phẫu thuật trung bình là 5,3 giờ, ngắn nhất là 3 giờ, dài nhất là 8 giờ. Số lượng cầu nối: 3,2 ± 0,5 cầu nối. Có 99,3% dùng động mạch vú trong trái, 63,1% dùng động mạch vú trong phải,60,3% dùng động mạch vị mạc nối phải, 46,8% dùng tĩnh mạch hiển. 53,2% bệnh nhân dùng cầu nối toàn động mạch. Thời gian thở máy, thời gian nằm hồi sức, thời gian nằm viện sau mổ trung bình là 21,5 giờ (thở máy kéo dài 20,7%); 63 giờ và 10,5 ngày. Vận mạch sau mổ chủ yếu 1 vận mạch và không vận mạch. Tỷ lệ tử vong sau phẫu thuật là 2,8%. Kết luận: Phẫu thuật bắc cầu động mạch vành không dùng tuần hoàn ngoài cơ thể tại BV Chợ Rẫy bước đầu cho thấy an toàn và hiệu quả, tỷ lệ tử vong chấp nhận được so với các nghiên cứu thế giới. Bên cạnh đó chúng tôi thấy rằng PTBCDMV không THNCT là kỹ thuật đòi hỏi phẫu thuật viên có kinh nghiệm và đường cong huấn luyện đóng vai trò rất quan trọng. Tương lai bệnh nhân mạch vành nguy cơ cao sẽ ngày càng tăng, PTBCDMV không THNCT sẽ là phương pháp được lựa chọn nhiều và phậu thuật viên trẻ cần được tiếp cận, đào tạo kỹ thuật này.
#lâm sàng #cận lâm sàng
BÓNG ĐỐI XUNG ĐỘNG MẠCH CHỦ VÀ CATHETER DẪN LƯU THẤT TRÁI TRONG ĐIỀU TRỊ BIẾN CHỨNG QUÁ TẢI THẤT TRÁI Ở BỆNH NHÂN HỖ TRỢ TUẦN HOÀN QUA MÀNG NGOÀI CƠ THỂ
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 515 Số 2 - 2022
Đặt vấn đề: Quá tải thất trái là biến chứng thường gặp ở các bệnh nhân suy tuần hoàn cấp được hỗ trợ tuần hoàn qua màng ngoài cơ thể (VA ECMO). Can thiệp dẫn lưu bằng các kĩ thuật ít xâm lấn gồm bóng đối xung động mạch chủ (IABP) và catheter dẫn lưu thất trái qua van động mạch chủ (TACV) đã được ứng dụng trong điều trị biến chứng này. Mục tiêu nghiên cứu nhằm mô tả hiệu quả và biến chứng của quá trình can thiệp. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu quan sát kết hợp tiến cứu và hồi cứu đơn trung tâm ở bệnh nhân người lớn được thực hiện VA ECMO có biến chứng quá tải thất trái tại bệnh viện Chợ Rẫy từ tháng 1 năm 2020 đến tháng 6 năm 2021. Mục tiêu của nghiên cứu nhằm so sánh các đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng, huyết động và siêu âm tim trong quá trình can thiệp dẫn lưu và kết cục. Kết quả: Có 31 bệnh nhân được đưa vào nghiên cứu. 19 (61,3%) bệnh nhân được can thiệp bằng TACV và/hoặc IABP. Kích thước TACV thường dùng là 7Fr với lưu lượng trung vị 110 mL/phút. Đa số được can thiệp vào ngày đầu tiên xuất hiện biến chứng quá tải. Tỉ lệ hồi phục ở các bệnh nhân được can thiệp là 57,9%. Biện pháp can thiệp làm cải thiện có ý nghĩa hiệu áp (10 mmHg so với 30mmHg, p=0,006), phân suất tống máu thất trái (15% so với 27%, p=0,010) và tích phân vận tốc dòng máu qua van động mạch chủ (AV VTI) (4,2 cm so với 8,9cm, p < 0,001). Các biến chứng được ghi nhận với tỉ lệ thấp bao gồm chảy máu tại chỗ, thiếu máu nuôi chi và tắc TACV. Kết luận: Can thiệp dẫn lưu thất trái bằng biện pháp TACV và IABP giúp cải thiện thông số về huyết động và chức năng thất trái ở các bệnh nhân VA ECMO có biến chứng quá tải.
#quá tải thất trái #oxy hóa máu qua màng ngoài cơ thể #catheter dẫn lưu qua van động mạch chủ #bóng đối xung động mạch chủ
Tuần hoàn ngoài cơ thể không cặp động mạch chủ trên bệnh nhân phẫu thuật vá thông liên nhĩ qua nội soi hỗ trợ tại Trung tâm Tim mạch - Bệnh viện E
Đặt vấn đề: Đánh giá tính khả thi và an toàn phẫuthuật vá thong liên nhĩ dưới tuần hoàn ngoài cơ thểkhông cặp động mạch chủ có nội soi hỗ trợ tại trungtâm Tim mạch bệnh viện E.Đối tượng và phương pháp: Tuần hoàn ngoài cơthể không cặp chủ trên 21 bệnh nhân phẫu thuật xâmlấn tối thiểu vá thông liên nhĩ qua nội soi hỗ trợ. Môtả cắt ngang, thực hiện từ tháng 3 đến tháng 8/2013 tạiTrung tâm Tim mạch-Bệnh viện E.Kết quả: Kỹ thuật được ứng dụng thành công,không có trường hợp nào biến chứng liên quan đến tắcmạch do khí, biến chứng thần kinh và tử vong.Kết luận: Phẫu thuật vá thông liên nhĩ không cặpđộng mạch chủ có nội soi hỗ trợ có thể thực hiệnthường quy ở những trung tâm phẫu thuật tim hở cókinh nghiệm. Mặc dù quan điểm chạy máy không cặpđộng mạch chủ còn khác nhau nhưng theo chúng tôivá thông liên nhĩ có nội soi hỗ trợ không cặp chủ làphương pháp an toàn, khả thi, hạn chế những bất cậpcủa mổ mở kinh điển
30. Giá trị tiên lượng của nồng độ lactat máu trên bệnh nhân phẫu thuật van tim có sử dụng tuần hoàn ngoài cơ thể
Mục tiêu của nghiên cứu nhằm tìm hiểu giá trị tiên lượng của nồng độ lactat máu trên bệnh nhân phẫu thuật van tim có sử dụng tuần hoàn ngoài cơ thể. Nghiên cứu được thực hiện trên 348 bệnh nhân với tuổi trung bình là 54,9 ± 11,7; Euroscore II (%) trung bình là 4,07 ± 6,27. Kết quả cho thấy nồng độ lactat thời điểm 6 giờ sau phẫu thuật (T6h) có giá trị trong tiên lượng dự đoán biến cố tử vong sớm (AUC = 0,883, với điểm cắt 4,0 mmol/L, độ nhạy là 77,8% và độ đặc hiệu là 78,7%) và dự đoán biến cố nặng (AUC = 0,910, với điểm cắt 4,0 mmol/L, độ nhạy là 76,1% và độ đặc hiệu là 85,7%). Nồng độ lactat T6h ≥ 4 mmol/L và Euroscore II (%) là yếu tố dự báo độc lập biến cố nặng sau phẫu thuật với OR lần lượt là 14,650 (p = 0,001) và 1,014 (p = 0,001) và là yếu tố dự báo độc lập nguy cơ tử vong trong 30 ngày sau phẫu thuật với HR lần lượt là 6,097 (p = 0,041) và 1,072 (p = 0,047).
#lactat máu #phẫu thuật van tim #tuần hoàn ngoài cơ thể
Tổng số: 26   
  • 1
  • 2
  • 3